Để có thể phòng tránh và xử lý đúng khi con yêu bị suy dinh dưỡng, trước tiên mẹ cần biết về các nguyên nhân có thể khiến trẻ suy dinh dưỡng.
- Nguyên nhân
Suy dinh dưỡng có thể xảy ra do một trong hai nhóm nguyên nhân sau, hoặc cả hai:
Thiếu hụt dưỡng chất:
– Trẻ biếng ăn, ăn không đủ nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể
– Thức ăn chế biến không đúng cách làm mất các chất dinh dưỡng hoặc trẻ có chế độ ăn ít dinh dưỡng.
Tiêu hao năng lượng:
– Do bị bệnh, nhất là khi trẻ bị các bệnh kéo dài như sốt kéo dài, tiêu chảy kéo dài…
– Trẻ bị nhiễm ký sinh trùng đường ruột (giun, sán, amip…)
Trong đa số trường hợp, suy dinh dưỡng xảy ra do sự kết hợp của cả 2 nguyên nhân trên, vừa “thiếu hụt dưỡng chất” vừa “tiêu hao năng lượng”.
2.Các mức độ suy dinh dưỡng:
Trẻ bị suy dinh dưỡng được chia ra làm 3 mức độ
- Trẻ bị suy dinh dưỡng độ I
Cân nặng của trẻ chỉ bằng 70% – 80% cân nặng của trẻ bình thường (cân nặng chuẩn theo tuổi, giới tính). Khám thấy lớp mỡ dưới da bụng mỏng, trẻ vẫn thèm ăn và không có dấu hiệu rối loạn tiêu hóa.
- Trẻ bị suy dinh dưỡng độ II
Cân nặng còn 60-70% cân nặng của trẻ bình thường. Trẻ gầy gò, không có lớp mỡ dưới da: bụng, mông, tay, chân; thường bị rối loạn tiêu hoá từng đợt và có thể kèm theo biếng ăn.
- Trẻ bị suy dinh dưỡng cấp độ III (Bé bị suy dinh dưỡng nặng)
Trẻ bị suy dinh dưỡng nặng có các hình thái biểu hiện khác nhau. Không phải chỉ có trẻ gầy mới đáng lo lắng về tình trạng dinh dưỡng, mà cơ thể bụ bẫm, tròn trịa cũng là một trong những biểu hiện của suy dinh dưỡng ở thể phù. Suy dinh dưỡng nặng được biểu hiện ở 3 thể: thể teo đét, thể phù và thể phối hợp.
Thể teo đét
Trẻ em bị suy dinh dưỡng ở thể này có nguyên nhân chủ yếu là do thiếu hụt các dưỡng chất cần thiết. Cân nặng của trẻ thấp hơn 60% trọng lượng của trẻ bình thường. Trẻ gầy đét, da bọc xương do mất toàn bộ lớp mỡ dưới da bụng, mông, chi, má và thường xuyên có các biểu hiện của rối loạn tiêu hoá: đi tiêu phân lỏng, phân sống. Ở mức độ này trẻ có thể ít thèm ăn hoặc ăn kém, trẻ trở nên ủ rũ, kém linh động và hay quấy khóc. Cơ nhẽo ảnh hưởng đến sự phát triển về vân động.
Thể phù
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến trẻ bị mắc suy dinh dưỡng thể phù là do thiếu chất đạm. Lúc này cân nặng của trẻ còn khoảng 60-80% trọng lượng của trẻ bình thường. Biểu hiện suy dinh dưỡng thể phù là mặt bệnh nhân tròn trịa nhưng chân tay khẳng khiu, rối loạn sắc tố da, thiếu máu, gan to phình. Biểu hiện phù làm cho trẻ trông có vẻ bụ bẫm mà dân gian thường gọi là “xổ sữa”. Trên da xuất hiện những đốm màu đỏ sẫm, đen loang lổ hoặc bong vảy, chốc lở là bởi sắc tố da bị rối loạn và các tế bào da bị chết.
Trong khi đó cha mẹ thường không lưu tâm vì ban đầu bệnh không có nhiều biểu hiện trầm trọng. Suy dinh dưỡng thể phù nguy hiểm do điều trị khó và tỷ lệ tử vong cao. Ngoài ra, còn có một vài đặc điểm khác như tóc trẻ bị thưa dễ rụng, móng tay mềm dễ gẫy. Trẻ ăn kém, nôn trớ, đi ngoài phân sống lỏng có nhày mỡ. Ngoài ra, trẻ còn hay quấy khóc, cơ nhẽo, kém vân động.
Thể phối hợp
Suy dinh dưỡng thể phối hợp là dạng kết hợp giữa suy dinh dưỡng thể teo đét và thể phù, nguyên nhân là do trẻ bị thiếu năng lượng và thiếu đạm. Cân nặng của trẻ giảm xuống dưới 60% trọng lượng của trẻ bình thường. Trẻ bị phù, nhưng cơ thể lại gầy đét: người gầy đét, da bọc xương, má tóp nhưng lại phù ở mu bàn chân và có thể có mảng sắc tố. Ngoài ra, trẻ còn ăn rất ít và hay bị rối loạn tiêu hoá.
3. Chế độ dinh dưỡng cho trẻ bị suy dinh dưỡng
Với trẻ bị suy dinh dưỡng, mẹ nên cho trẻ ăn nhiều bữa trong ngày, mỗi bữa một ít để bảo đảm số lượng thức ăn cần thiết cho trẻ, đồng thời phải cung cấp năng lượng cao hơn trẻ bình thường. Chế độ ăn của trẻ nên được cân đối giữa các nhóm chất:

Tăng lượng protein: Suy dinh dưỡng ở trẻ em, mẹ cần phải tăng lượng protein hơn nhu cầu bình thường để nhanh chóng phục hồi tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Nguyên tắc xây dựng chế độ ăn: Tăng dần lượng calo/kg từ 90-150 Kcalo/kg/ngày, và tăng dần lượng protein từ 2g/kg lên 5-7 g/kg/ngày. Mẹ nên dùng các loại thực phẩm có nguồn gốc động vật như: trứng, thịt, sữa, cá, tôm, cua… hoặc có thể dùng các protein có nguồn gốc thực vật như đậu, đỗ, lạc, vừng.
Tăng dầu mỡ,: Dầu mỡ cung cấp năng lượng cho trẻ gấp đôi chất bột và chất đạm. Vì vậy, trong chế độ ăn cho trẻ suy dinh dưỡng, mẹ nên tăng lượng dầu mỡ. Mẹ nên sử dụng các loại dầu ăn thực vật như dầu lạc, dầu vừng, dầu hướng dương,…
Ngoài ra, cần bổ sung một số vi chất dinh dưỡng (vitamin và muối khoáng) để trẻ nhanh chóng phục hồi tình trạng dinh dưỡng, ăn tốt và tăng cân.
4.Phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ
Mẹ nên chủ động phòng tránh để giúp con không bị suy dinh dưỡng
– Khi mang thai, mẹ cần bổ sung dinh dưỡng để đạt mức tǎng cân 10-12 cân đến khi sinh nở.
– Cho trẻ bú sớm trong nửa giờ đầu sau khi sinh, bú hoàn toàn sữa mẹ trong 4 tháng đầu và tiếp tục cho bú đến 18-24 tháng.
– Cho trẻ ǎn bổ sung (ǎn dặm) từ tháng thứ 6.
– Thực hiện phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng: phụ nữ có thai uống viên sắt hoặc acid folic hàng ngày. Trẻ em 6- 36 tháng uống vitamin A liều cao 2 lần/nǎm.
– Có các biện pháp phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn (tiêu chảy, viêm đường hô hấp)
– Thực hiện vệ sinh môi trường, dùng nguồn nước sạch, cho trẻ tẩy giun theo định kỳ, rèn luyện thói quen rửa tay trước khi ǎn và sau khi đi đại tiểu tiện.
– Đảm bảo vệ sinh thực phẩm, thức ǎn để đây không là nguồn gây bệnh.